Thứ Năm, 20 tháng 6, 2013

TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN


Ni Sư Thuần Tuệ


Chủ đề: Tình đôi ngập ngừng



Tiến thoái lưỡng nan
Đi về lận đận
Tình đôi ngập ngừng
Tiến thoái lưỡng nan
Trịnh Công Sơn

Mây bay khắp xứ 
Chân mờ cõi xa
Vàng phai nhè nhẹ
Chiều hôm cửa nhà

Tiến thoái lưỡng nan
Đi về lận đận
Ngày xưa lận đận
Tiến thoái lưỡng nan

Mây bay khắp xứ
Chân mờ cõi xa
Vàng phai nhè nhẹ
Chiều hôm cửa nhà

Tiến thoái lưỡng nan
Đi về lận đận
Ngày xưa lận đận
Không biết về đâu

Về đâu cuối ngõ
Về đâu cuối trời
Xa xăm tôi ngồi
Tôi tìm giấc mơ
Xa xăm tôi ngồi
Tôi tìm lại tôi ...

Tiến thoái lưỡng nan
Đi về lận đận
Ngày nay lận đận
Là ... giọt hư không.

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2013

Bi và trí

HT. Thích Thanh Từ


Tán Ca Thầy
Sáng tác: Hạnh Đoan
Trình bày: Lý Diệu Linh


HT. Thích Thanh Từ

Trong đạo Phật chúng ta thường nghe nói đến trí tuệ và từ bi. Vậy trí tuệ là gì, từ bi là gì? Người sống như thế nào là sống với trí tuệ và người hành xử như thế nào là người từ bi?

Đạo Phật là đạo giác ngộ; giác ngộ là thấy đúng lẽ thật. Người thấy đúng lẽ thật không thể thiếu trí tuệ được. Vì vậy mà tất cả chúng ta, nhất là người tu Phật phải lấy trí tuệ làm nền tảng.

Người tu Phật phải lấy trí tuệ làm nền tảng.
Ở đây tôi chia trí tuệ ra làm hai loại: Trí thế gian và trí xuất thế gian.Trước hết tôi nói về trí thế gian theo tinh thần Phật pháp. Trí thế gian trong Phật pháp là thấy biết đúng tinh thần nhân quả. Người tu Phật khi làm việc gì phải thấy rõ nguyên nhân và hậu qủa của nó. Người thấy rõ nhân và qủa không lầm là người co trí tuệ. Trong kinh có nói: “Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ qủa”. Bồ Tát là hữu tình giác, một chúng sanh giác ngộ là chúng sanh đó biết sợ nhân ác, chúng sanh mê muội thì sợ qủa khổ. Cũng sợ vậy, mà hai cái sợ khác nhau, người sợ nhân gọi là giác, người sợ qủa gọi là mê.Trí tuệ của người học đạo tuy là trí thế gian,nhưng cũng là trí tuệ của Bồ Tát. Người biết rõ mỗi hành động mỗi lời nói mỗi ý nghĩ là cái nhân đưa tới đau khổ,thì tránh không làm không nói và không nghĩ. Đó là người biết sống bằng trí tuệ. Nếu nghĩ nói làm không biết kết qủa ra sao, cứ nói làm càng bướng, khi kết qủa khổ đau đến thì than khóc, cầu Trời khẩn Phật cứu, đó là cái si mê của chúng sanh. Hiện tại chúng ta sống với trí tuệ hay sống với si mê?

Mục đích của sự ăn uống là để nuôi dưỡng mạng sống được khỏe mạnh lâu dài.
Tôi đơn cử vài việc rất nhỏ mọn trong đời sống là ăn uống. Mục đích của sự ăn uống là để nuôi dưỡng mạng sống được khỏe mạnh lâu dài. Như vậy, ăn uống là cái nhân, nuôi dưỡng mạng sống được khỏe mạnh lâu dài là cái quả. Nhưng,có người ăn uống những thứ phá hoại mạng sống, vậy người đó là người trí hay người mê? Chẳng hạn như uống rượu, rượu làm đau bao tử, sơ gan, viêm phế quản... mà người ta vẫn cứ uống. Những món ăn không hợp với bệnh, ăn vào là bệnh phát mà người ta vẫn cứ ăn. Khi bệnh phát nặng lo sợ cầu thầy kiếm thuốc, mà cái nhơn gây ra đau bệnh thì không tránh. Đó là người mê nên gọi là phàm phu thế gian. Người có trí biết cái gì ăn vào làm bại hoại mạng sống, làm cho cơ thể đau bệnh thì không ăn. Món ăn nào giúp cho cơ thể tráng kiện, làm cho mạng sống được lâu dài thì dùng, đó là người trí. Còn hút thuốc có lợi cho mạng sống hay có hại? Hút thuốc làm cho nám phổi, ung thư phổi... mà người ta vẫn cứ hút. Á phiện là một loại ma túy làm cho cơ thể con người gầy ốm ốm xanh xao, suy nhược, bại hoại tột đỉnh, vậy mà người ta vẫn cứ hút. Đó là những người si mê đáo để,tự phá hoại thân thể mình một cách vô lý và nguy hiểm. Người si mê vừa vừa thì phá hoại cơ thể vừa vừa, người si mê ít thì phá hoại cơ thể ít. Tai họa của rượu, của thuốc, của á phiện hiện tại các nhà y học đã chứng minh cụ thể và khuyên không nên dùng. Người ta biết hại mà vẫn cứ dùng, thật là đáng thương! Là con người ai cũng có quyền chọn những thực phẩm tốt làm cho cơ thể khỏe mạnh để dùng, còn những thứ nào đưa đến bệnh hoạn đau khổ thì tránh.


Vì con ngưòi có khỏe mạnh mới vui tươi, đau yếu thì buồn khổ.
Chúng ta tu Phật là tu theo đạo giác ngộ, những cái gì làm cho chúng ta đam mê, say đắm, khi thức tỉnh phải gan dạ bỏ liền. Đó là đã tiến trên đường giác ngộ. Đã tiến trên đường giác ngộ thì khổ đau ở cỏi đời này tuy chưa hết nhưng cũng đã bớt đi. Ví dụ người ghiền rượu, ghiền thuốc làm mỗi ngày được 50đ, uống rượu 20đ, hút thuốc 10đ, còn lại 20đ không đủ tiền ăn cơm nên phải mang nợ. Cả cuộc đời sống trong say sưa thiếu thốn khổ sở vô cùng. Bây giờ biết uống rượu hút thuốc có hại, gan dạ bỏ không dùng nữa. Tiền lương mỗi ngày chỉ dùng cho việc ăn uống thì vừa đủ, nên thân khỏe mạnh tâm vui vẻ. Đó là người tự tỉnh tự giác bằng trí tuệ thế gian.
Cả cuộc đời sống trong say sưa thiếu thốn khổ sở vô cùng.

Lại có những chén thuốc đắng cay, uống vào không ngon miệng mà người ta lại dùng,vì họ biết món thuốc đó uống vào thì hết bệnh, thân thể khỏe mạnh, sống lâu. Đó cũng do con người có trí tuệ thế gian biết giảng nhân nào tốt thì làm, dù khó làm vẫn cố gắng; nhân nào xấu thì tránh, không làm dù có hấp dẫn. Người sống như vậy là tu, chớ không phải đi chùa thường, lạy hì hụt, khi về nhà cũng rượu thịt say sưa, nói làm sằng bậy, gây khổ cho mình làm khổ lây cho người; đi chùa lạy phật như thế chưa biết tu. Quí vị cứ sống bình thường, mà biết tránh những cái nhân xấu gây đau khổ cho mình, cho gia đình, cho xã hội, đó là tu.

Người có trí tuệ là người có thái độ dứt khoát, biết điều dở, nhất định không làm, dù cho có ai khuyến khích rủ ren. Còn người bình thường phân tích biết điều đó dở mà khi có ai ru cũng chạy theo làm, thì người này chưa thực có trí, còn mơ màng nửa tỉnh nửa mê; gặp người tỉnh thì tỉnh theo, gặp người mê thì mê theo. Như vậy, người tu chúng ta phải thực sự tỉnh để tự quyết định việc làm của mình cho chính chắn tốt đẹp.

Về lời nói ngôn ngữ cũng vậy. Có khi nào mình chưởi mắng người mà được người thương mến không? Chắc chắn là không. Tất cả quí vị hiện có mặt ở đây, có ai muốn cho mọi người ghét mình không? Chắc chắn là không. Chẳng muốn người ghét, thì những lời hung ác chê bai chỉ trích... nên nói hay nên dừng? Nên dừng. Vì những lời đó làm cho người nghe khó chịu, họ sẽ sanh tâm oán ghét người nói. Ở đời nếu bị người oán ghét thì khi mình gặp khổ, họ sẽ chế nhạo hoặc hãm hại thêm. Còn nếu được người thương mến khi hoạn nạn được người cứu giúp an ủi. Như vậy có ai dạy khờ gì mà cứ tạo những cái nhơn để cho người oán ghét? Ở thế gian này người ta oán ghét nhau bởi cái gì nhiều hơn hết? Đa số là do cái miệng. Vậy ngang đây quí vị nhớ tu cái miệng tức là tu khẩu nghiệp. Mỗi khi nói ra là phải lựa lời mà nói, lời lành thì nói, lời dữ thì chừa. Như vậy mới đem an vui lại cho mình cho người. Nếu nói lời dữ thì đau khổ sẽ đến, chớ không tránh khỏi.

Đôi môi để nói lời hay đẹp,
Hay mỉm miệng cười thế cũng xinh
Chuyện người ta nào biết sự tình
Thị phi lắm làm chi rối rắm !!!
Lại nữa, người cứ lo tụng kinh với Phật, hễ ai chọc tức thì mắng chưởi không tiếc lời. Như vậy tụng kinh một giờ, chưởi người chừng mười phút thì phước đức tụng kinh cũng không còn. Để thấy rõ việc tu hành, người trí biết lời nào nên nói thì nói, lời không nên nói thì dừng, điều tốt nên làm thì làm, điều quấy ác có hại thì không làm, đó là người giảng trạch được sự thật. Quí vị chớ nói làm một cách mờ ảo có tính cách huyền bí linh thiêng, mà không thông lý nhân quả. Vì đạo Phật chủ trương con người gặp cảnh khổ hay cảnh vui gốc từ nơi nghiệp lành mà ra. Nói lành làm lành là nghiệp lành, nói hung dữ làm việc ác là nghiệp ác. Muốn được an vui mà gây nhân ác, đó là mê, thiếu trí tuệ. Thế nên muốn được an vui là phải tạo nhân lành, an ủi khuyên lơn giúp đỡ mọi người từ vật chất lẫn tinh thần cho họ được vui vẻ. Người biết sống như thế là người có trí tuệ thế gian.

Sau đây là trí tuệ xuất thế gian. Trí xuất thế gian là trí biết đúng như thật, cái nào giả biết nó lá giả, cái nào thật biết nó là thật. Cái giả cho là thật đó là mê, cái có thật mà không biết cũng là mê, thiếu trí tuệ. Thế nên, cái giả biết rõ là giả, cái thật biết nó là thật, đó là người trí, mà là trí xuất thế gian. Trí này có khả năng thấy suốt được lẽ thật, nhìn thẳng nơi con người biết cái nào là giả cái nào là thật không lầm lộn. Thông thường người đời ai cũng thấy thân này là thật. Nhưng với cái nhìn của người có trí xuất thế gian thấy như chỗ Phật đã chỉ bày: Thân này là tướng nhân duyên hòa hợp, nhân duyên hội đủ thì thân này tồ tại, nếu thiếu duyên thì nó tan hoại. Bốn thứ đất, nước gió, lửa hợp lại mà có thân này; những chất cứng như tóc, lông, răng, xương...thuộc về đất. Những chất lỏng như máu, nước miếng mồ hôi... thuộc về nước. Hơi ấm thuộc về lửa. Sự máy động, hơi thở... thuộc về gió. Bốn thứ đó hòa hợp thành thân này, nếu một trong bốn món đó mất đi thì thân tan hoại. Bốn món đó là bốn yếu tố chính duy trì mạng sống con người. Nhưng bốn món đó lại xung khắc với nhau: lửa gặp nước thì tắt, đất gặp gió thì rung rinh... Vậy mà bốn món đó phải họp nhau điều hòa nhau, thì mạng sống con người mới điều hòa an ổn. Nếu có sự chống trái hay dư thừa hoặc hao hụt thì thân bất an. Chẳng hạn lửa nhiều thì thân nóng đầu nhức phải dùng thuốc hạ sốt.Lửa ít thì rét rung phải sưởi ấm, uống thuốc cho tăng nhiệt lượng. Nước nhiều thì phù thủng phải thải nước ra. Nước ít thì khô khao gầy đét... Gió nhiều thì đau nhức... Cứ như vậy mà biến động không dừng ở nơi thân. Nếu một trong bốn thứ đó hoặc quá thiếu hay quá thừa thì mạng sống dừng ngay. Chúng ta thấy sự hòa hợp của đất, nước, gió, lửa thật là tạm bợ, giờ nào nó còn hòa hợp là thân còn, giờ nào nó bất hợp tác thì thân mất, không có gì bảo đảm cả, chỉ cần một hơi thở ra mà không hít vào thì chết ngay. Đó là cái thấy của người trí về thân thể con người. Ngược lại, ai cho rằng thân này là thật, chắc bền vĩnh viễn, đó là cái thấy của người mê. Song không phải biết thân này tạm bợ để rồi bi quan yếm thế, buồn than cho số phận. Mà giờ nào còn thở, còn khỏe mạnh, những điều hay tốt, nên làm ngay, nếu chần chờ khất hẹn, chết đến sao làm kịp? Tu cũng vậy, giờ nào còn thở còn hơi ấm thì lo tu, mai mốt tắt thở làm sao tu kịp? Biết như vậy để nỗ lực tu, nỗ lực lực làm điều thiện, chớ không phải thấy nó tạm bợ rồi sống buông xuôi chờ chết, quan niệm như vậy không đúng. Người trí thấy thân này tạm bợ, không thật, nhờ vậy mà hằng tỉnh giác nỗ lực tu hành. Đó là giai đoạn thứ nhất thấy thân này giả.

Giai đoạn thứ hai: Thấy thân này là giả và ngay trong cái giả đó còn có cái chân thật không hình không tướng mà hằng sáng rỡ không hoại, người trí khéo nhận ra nó và hằng sống với nó. Ví dụ trong nhà giảng này trên đây là bàn phật có hình tướng, quí vị nói là có; khoảng không gian trống, đa số người nói là không. Nhưng kỳ thực nó không phải là không. Nếu không thì mọi người đều chết vì thiếu không khí thở. Khoảng không gian này không có hình tướng thô như cái bàn, tượng Phật, nhưng có không khí, có bụi bặm... Chỉ vì mắt thường không thấy được nên cho là không. Vì thế mà phủ nhận những gì quá tầm mắt thấy. Như vậy, để thấy những cái được cho rằng có là vì có hình tướng thô, còn trong không gian cũng có những cái tế, mà mắt thường không thể thấy được, chớ không phải là không. Cũng vậy, thân người phần tứ đại hòa hợp là cái có thô, còn cái hiểu biết được gọi là tâm là cái có tế. Cái có thô là vật chất, cái có tế là tinh thần. Tinh thần có thì vật chất có,vật chất có thì tinh thần có,hai cái hỗ tương nhau nên mới có cuộc sống thế này. Bởi có tinh thần nên khi vật chất hoại mà tinh thần bất động không hoại. Người thấy cái thật biết đúng như thật, thấy cái giả biết đúng như giả, đó là người có trí xuất thế gian. Tôi nhắc lại, người học đạo là phải có trí, trước tiên là phải có trí thế gian hay hữu sư trí, do sự học hỏi truyền dạy của bậc thầy mà có, để rồi đi tới trí xuất thế gian do sụ tu hành mà được. Học đạo mà mù tối quá thì không xứng đáng là người học Phật.

Bây giờ nói tới từ bi. Từ bi từ đâu mà có và muốn có phải làm sao? Làm thế nào có được tình thương đối với mọi người? Tình thương và từ bi có giống nhau không? Tình thương là tình luyến ái giữa cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bằng hữu... lại có những tình thương không tốt phi đạo lý nữa. Còn từ bi là thương cao thượng bất vụ lợi, thương tất cả mọi loài không vì bản ngã của mình. Muốn có tình thương bất vụ lợi đó trước tiên chúng ta phải xét cảnh khổ của con người.Bài giảng đầu tiên Phật giảng cho năm anh em ngài Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển là Tứ Đế. Trong Tứ đế, Khổ đế được nêu lên trước cho mọi người thấy khổ là một lẽ thật không chối cải được. Mục đích là để cho con người thoát ra mọi khổ đau. Do thấy khổ đau dày xéo lên kiếp người mà khởi lòng từ bi thương yêu lẫn nhau, cứu giúp cho nhau ra khỏi biển khổ, chớ không phải nói khổ để mà khóc than cho số phận. Thông thường khi con người cùng ở trong cảnh hoạn nạn khốn khổ thì dễ thông cảm, dễ thương nhau. Nhưng khi ở trong cảnh giàu sang, quyền thế, người được địa vị cao kẻ ở địa vị thấp khó thông cảm và thương yêu nhau. Vì vậy muốn phát khởi lòng thương, việc dễ dàng nhất là thấy rõ nỗi khổ của nhau thì mới thương yêu nhau. Nếu mọi người thấy rõ thân mình cũng như thân người do tứ đại hòa hợp mà thành. Khi nó bất hòa thì thân bệnh hoạn, một đại bất hòa thì sanh một trăm lẽ một bệnh. Nếu bốn đại bất hòa thì sanh bốn trăm lẽ bốn bệnh. Như vậy thân này là một ổ bệnh, đã là một ổ bệnh thì khổ vô cùng. Có thân không ai dám nói tôi hoàn toàn không bệnh, không bệnh nặng thì cũng bệnh nhẹ hoặc bệnh mới phát khởi hoặc bệnh đã khởi lâu, không ai là không bệnh. Để thấy rõ thân chúng ta là thân bệnh hoạn, người nào cũng có bệnh thì người nào cũng khổ. Tất cả đều khổ nên thương nhau, giúp đở nhau, an ủi nhau cho bớt khổ. Kiếp người vốn đã khổ rồi, lại làm cho khổ thêm thì qúa ác. Có nhiều người tuy bên ngoài thân lành lặng nhưng bên trong có đôi ba chứng bệnh đang hành hạ, khiến họ đau nhức, rên rỉ hoặc cộc cằn. Nếu họ có lỗi lầm nên tha thứ. Người tu là kẻ từ bi, người đời đã khổ mà làm khổ thêm là thiếu từ bi, không xứng đáng là người tu Phật.

Thứ nữa, là xét cái si mê của chúng sanh mà khởi tâm từ bi. Chúng sanh vì si mê nên cái giả không biết là giả cho là thật, và cái thật mình tự có không biết lại bỏ quên đi. Do tưởng cái giả là thật, nên bị cái giả chi phối sai sử tảo bao nhiêu nghiệp tội, để rồi đời này mang thân này khổ, đời khác mang thân khác khổ, cứ mang thân khổ trầm luân trong vòng sanh tử không có ngày dừng. Chúng ta khi thấy người nào đang ở trong cảmh mê, liền dùng mọi phương tiện khuyến khích nhắc nhở cho họ tỉnh. Dù họ chưa hoàn toàn tỉnh song cũng lóe sáng phần nào để bớt mê. Hễ bớt mê là bớt khổ. Đó là lòng từ bi, vì thấy người mê nên khởi lòng thương xót. Như vậy chúng ta là người học Phật phải có trí tuệ và từ bi. Từ bi một là thấy chúng sanh khổ mình thương xót, an ủi giúp đỡ họ được vui. Hai là thấy người mê cứ gây nghiệp rồi chịu khổ, khổ từ đời này tới đời nọ không có ngày cùng, nên thương xót dùng phương tiện chỉ dẫn cho họ bớt mê. Phật dạy thể hiện lòng từ bi không gì hơn là bố thí, bố thí tài tức là giúp đỡ của cải vật chất cho người nghèo khó bệnh tật. Bố thí pháp là giảng dạy nhắc nhở cho người hết mê lầm.

Trách nhiệm của người tu là phải tự mình có trí tuệ để giải khổ cho mình, và xót thương mọi loài đang đau khổ mà giúp cho họ giải khổ. Tự mình làm sao thoát khỏi những cái dở, những thói quen tật xấu từ lâu đời để mình hết khổ và giúp cho mọi người hết khổ là tu. Tu bằng trí tuệ và từ bi.

Bài giảng
Thích Thanh Từ

Thứ Ba, 18 tháng 6, 2013

Nụ Hoa Sala

Nụ Hoa Sala
Nhạc: Thuần Bạch - Viên Chiếu
Ca sĩ: Ánh Tuyết
Hình ảnh: Vuthi
Dàn dựng: Nuidas

Tuyệt cú


Tuyệt cú

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tuyệt cú còn gọi là tiệt cúđoạn cútuyệt thi là thể thơ lưu hành từ thời nhà Đường, làm theo lối thơ luật hay thơ cổ, cứ bốn câu một giải. Thường gặp nhất có bài gồm một giải hoặc hai giải: tiền giải và hậu giải, ngoài ra thơ cổ trường thiên thì các giải này không nhất định. Nhân dựa vào lối thơ luật mà bài thơ tuyệt cú ngắt ra bốn câu có từ hai đến ba vần bằng thì gọi là tuyệt cú thể luật, vận vần trắc mà không theo niêm luật thì gọi là tuyệt cú thể cổ.
Hai thể loại chủ yếu của thể tuyệt cú là Ngũ ngôn tuyệt cú và Thất ngôn tuyệt cú (đặc biệt là Ngũ ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn tứ tuyệt).
Một bài thơ tuyệt cú thể luật có thể lấy (ngắt, tuyệt) từ một bài thơ thất luật hay ngũ luật nhưng phải theo quy tắc sau:
  • Lấy đề, thực làm một bài, thì phải có ba vần và hai câu thực phải đối nhau.
  • Lấy đề, luận làm một bài thì phải có ba vần và hai câu luận đối nhau.
  • Lấy đề, kết làm một bài thì phải có ba vần và không cần đối nhau.
  • Lấy luận, kết làm một bài thì phải có hai vần và hai câu luận phải đối nhau.
  • Lấy thực, luận làm một bài thì phải có hai vần và trong bốn câu đều phải có đối.
Giang thôn tức sự của Tư Không Thự là một thí dụ:
Bãi điếu quy lai bất hệ thuyền
Giang thôn nhật lạc chính kham miên
Túng thiên nhất dạ phong xuy khứ
Chỉ tại lô hoa thiển thuỷ biên
Một bài tuyệt cú thể cổ không cần theo luật này và thường vận vần trắc, và các giải cũng ngẫu hứng không nhất định. Xuân hiểu của Mạnh Hạo Nhiên là một ví dụ:
Xuân miên bất giác hiểu
Xứ xứ văn đề điểu
Dạ lai phong vũ thanh
Hoa lạc tri đa thiểu?
Thơ tuyệt cú lấy lời nói gần, hàm súc mà tình xa, ý sâu làm trọng. Ngôn ngữ uyển chuyển, biến hoá ở câu thơ thứ ba, nếu chỗ chuyển này mềm mại sẽ giữ được huyết mạch của toàn bài và làm cho câu cuối cùng hoặc vút lên cao ngất hoặc trôi đi như thuyền thuận nước...
Trong Đường thi, tuyệt cú là một thể thơ được ưa chuộng vì thể Cổ phong đề cao phải khởi chỗ diểu nhiên, kết chỗ du nhiên; thể Luật quá khuôn phép, gò bó. Thi nhân đời Đường làm thơ theo thể tuyệt cú có thể bày biện được chỗ khoáng đạt trong lòng mà vẫn giữ được vẻ cổ kính, phiêu nhiên, cao nhã là đặc trưng của thời đại thi ca này.

Đường luật

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ đời nhà Đường (Tang), Trung Quốc. Thơ Đường luật gọi là thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể, không theo cách luật ấy[1].
Vì giáo dục, thi cử... đều bằng tiếng Hán, nên từ lâu người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán, trong đó có thơ theo luật Đường.
Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt [1].
Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Kể từ phong trào Thơ Mới trở đi, số người trong nước làm luật thi đã bị giảm đi đáng kể.
Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều nghiêm khắc sau: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng "thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn, biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ), "ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này.

Mục lục

  [ẩn

Luật[sửa]

Điều căn bản của luật thơ Đường là đối, đó là hai nguyên tắc đối âm và đối ý. Nghĩa là lần lượt những chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3, ... của câu trên phải đối với các chữ thứ nhất, thứ 2, thứ 3, ... của câu dưới cả về âm và ý. Nhưng làm được như thế thì rất khó, vì vậy người ta quy ước Nhất tam ngũ bất luật (chữ thứ nhất, thứ ba, thứ năm không cần theo luật).

Đối âm (Luật bằng trắc)[sửa]

Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu,  chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không theo quy định này thì được gọi "thất luật".
Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát cú luật trắc.
Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ vần bằng bằng chữ "B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có luật để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết là:
1. Luật vần bằng
  • Thất ngôn tứ tuyệt
Câu sốVầnVí dụMời trầu1 của Hồ Xuân Hương
1BTBBQuả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
2TBTBNày của Xuân Hương mới quệt rồi
3TBTTCó phải duyên nhau thì thắm lại
4BTBBĐừng xanh như , bạc như vôi
Chữ thứ1234567
  • Thất ngôn bát cú
Câu sốVầnVí dụThương vợ1 của Trần Tế Xương
1BTBBQuanh năm buôn bán ở mom sông
2TBTBNuôi đủ năm con với một chồng
3TBTTLặn lội thân  khi quãng vắng
4BTBBEo sèo mặt nước buổi đò đông.
5BTBTMột duyên hai nợ âu đành phận
6TBTBNăm nắng mười mưa dám quản công.
7TBTTCha mẹ thói đời ăn ở bạc!
8BTBBCó chồng hờ hững cũng như không!
Chữ thứ1234567
2. Luật vần trắc
  • Thất ngôn tứ tuyệt
Câu sốVầnVí dụPhong Kiều dạ bạc (楓橋夜泊)
của Trương Kế (张继 Zhang Jì)
Phiên âm Hán-Việt
1TBTB月落烏啼霜滿天Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
2BTBB江楓魚火對愁眠Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
3BTBT姑蘇城外寒山寺Cô  thành ngoại Hàn San tự
4TBTB夜半鐘聲到客船Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Chữ thứ1234567
Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà (chuyển thể thành lục bát):
Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
Lửa chài cây bãi sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
  • Thất ngôn bát cú
Câu sốVầnVí dụNhớ bạn phương trời1 của Trần Tế Xương
1TBTBTa nhớ người xa cách núi sông
2BTBBNgười xa, xa lắm nhớ ta không
3BTBTSao đương vui vẻ ra buồn bã!
4TBTBVừa mới quen nhau đã lạ lùng
5TBTTLúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
6BTBBKhi riêng, riêng cả đến tình chung
7BTBTTương  lọ phải là trai gái,
8TBTBMột ngọn đèn xanh trống điểm thùng
Chữ thứ1234567

Đối ý[sửa]

Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) nhưng bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Đối chữ; danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh; trên đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì bị gọi "thất đối".
Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà,2
"Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh), "dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông" thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên, và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài chú" đối với "chợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ. Nhị tứ lục phân minh (Câu 2,4,6 phải đối ý)

Niêm[sửa]

Các câu trong một bài thơ Đường giống nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
  • câu 1 niêm với câu 8
  • câu 2 niêm với câu 3
  • câu 4 niêm với câu 5
  • câu 6 niêm với câu 7
Chẳng hạn với luật vần bằng:
  1. B - T - B B
  2. T - B - T B
  3. T - B - T T
  4. B - T - B B
  5. B - T - B T
  6. T - B - T B
  7. T - B - T T
  8. B - T - B B
Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú

Vần[sửa]

Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi "thất vận".
Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần thông". Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ.
Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống nhau.

Bố cục[sửa]

Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia gồm 4 phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực. "Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu "thúc" (hay "chuyển") và câu cuối là "hợp".
Có người cho rằng Hai câu đề giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sviệc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khải quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao
Thơ thất Ngôn Bát Cú có luật lệ gò bó khó làm nhất nhưng chính điều đó lại được người xưa ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa đều bắt thí sinh phải làm.
Tại quê hương của Đường thi cũng là nơi mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật rầm rộ nhất, lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề, Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp bốn từ Khởi (khai), Thừa, Chuyển, Hợp. Tuy nhiên cách phân chia này cũng không khác gì cách phân Đề, Thực, Luận, Kết về mặt ý nghĩa.
Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho bài thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan niệm này đứng ở góc độ không gian-thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ Đường luật thường yếu tố thời gian chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa trật tự không gian là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.
Cũng cần nhắc đến quan điểm “Cảnh-Tình” của Kim Thánh Thán khi chia bài thất ngôn bát cú thành hai phần đều nhau, theo đó bốn câu trên của bài nặng về cảnh và bốn câu dưới nặng về tình.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố tìm quy luật chung về bố cục để áp dụng trong hàng loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu đã có từ thời Minh mạt Thanh sơ ở Trung Hoa, quan điểm bám sát và tuân thủ cách phân chia bố cục của từng bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biểu hiện trong bài. Một ví dụ là bài thơ hết sức nổi tiếng Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được phân tách theo bố cục 1/6, hoặc bài Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến có thể bố cục 6/1 hoặc 1/5/1.

Một số dạng thơ[sửa]

Thất ngôn bát cú[sửa]

Đó là thơ Đường chuẩn luật, gồm có 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Hai câu đầu là 2 câu đề (đặt vấn đề mà bài thơ đó nói tới). Hai câu tiếp theo là hai câu thực (tả hoặc nói thực về vấn đề đó). Hai câu sau đó là 2 câu luận (bàn luận về vấn đề đó). Cuối cùng là 2 câu kết (kết luận vấn đề)
Nếu tách ra từng cặp một thì chúng có thể thành những cặp câu đối riêng biệt.
Ngoài dạng thơ Đường chuẩn luật là "thất ngôn bát cú" còn có các biến thể sau:

Thất ngôn tứ tuyệt[sửa]

Thực chất là một bài "thất ngôn bát cú" đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần" mà Nguyễn Du đã nhắc trong truyện Kiều.
Ví dụ: bài thơ sau của Quách Tấn
Từ buổi thuyền đưa khách thuận dằm
Trông chừng bến cũ biệt mù tăm
Cảm thương chiếc lá bay theo gió
Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm
                :*
Từ trong cuộc sống vốn náo nhiệt
Trông ra thiên hạ chẳng ai hơn
Cảm mến một tình thân vĩnh cửu
Riêng một nỗi lòng gió đưa trăng
                :*
Trăng rằm nghe tiếng bạn ta nói
Trong lúc sương tàn dế im hơi
Tỉnh ra thì cũng trời đã rạng
Mong nhớ một ngày biệt mù tăm

Ngũ ngôn tứ tuyệt[sửa]

Thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.
Ví dụ: từ bài trên mà thành
Thuyền đưa khách thuận dằm
Bến cũ biệt mù tăm
Chiếc lá bay theo gió
Tình xưa ghé đến thăm
*
Trăng rằm nghe tiếng bạn ta nói
Trong lúc sương tàn dế im hơi
Tỉnh ra thì cũng trời đã rạng
Mong nhớ một ngày biệt mù tăm

Ngũ ngôn bát cú[sửa]

Cũng là từ bài thất ngôn bát cú bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại vẫn giữ nguyên.

Yết hậu[sửa]

Yết Hậu3 (yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có ba câu trên đủ chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ.
Ví dụ: bài Lươn
Cứ nghĩ rằng mình ngắn,
Ai ngờ cũng dài đường.
Thế mà còn chê trạch:
Lươn!
Vô Danh